Tôi hết sức kính trọng bác Đồng và không bao giờ quên tiếng nói sang sảng của bác trong các cuộc họp, tiếng nói ấm ấp như người ông với con cháu khi nói chuyện với cán bộ trẻ, nụ cười hiền hậu xen lẫn tiếng cười oang oang hết cỡ vô cùng hấp dẫn, lôi cuốn người khác của bác. Nhưng tôi cũng rất buồn vì không ngờ bác lại vướng vào vụ Công hàm, Công thư hay Bức thư 1958 này. Như nhiều lần đã bình luận, tôi thấy đúng là Công hàm này của bác có vấn đề, có lẽ xuất phát từ lòng tin quá lớn vào tình anh em Việt Nam - Trung Hoa "Núi liền núi, sông liền sông / chung một biển Đông với tình hữu nghĩ sáng như rạng Đông / Bên sông tắm cùng một dòng / Tôi nhìn sang đấy, anh nhìn sang đây, / Sớm sớm chung nghe tiếng gà gáy cùng / Chung một ý, chung một lòng / Đường ta đi hồng cờ thắng lợi...", nên lãnh đạo Việt Nam đã đồng ý và bác đã ký Công thư này. Tôi thấy những đề xuất trong bài dưới đây là hợp lý. Theo tôi, Quốc hội Việt Nam nên có nghị quyết bác bỏ Công thư của bác. Chắc ở suối vàng, bác cũng không phản đối những việc sửa sai này.
Khó khăn của chính quyền Việt Nam hiện nay khi giải thích về Công hàm PVĐ 1958 là làm sao có thể giải thích khác đi được về nội dung công hàm đã viết rành rọt có lợi cho TQ và bất lợi cho VN về vấn đề toàn vẹn lãnh thổ trong đó có biển đảo.
Lập luận nêu trên đã bị học giả nghiên cứu độc lập về biển Đông, ông Trương Nhân Tuấn, đả kích vì như thế VN sẽ “sa lầy “trong việc kiện TQ nếu dùng các” luận cứ của cuộc họp báo 23/5”.
Lập luận của ông Trương Nhân Tuấn là ĐÚNG nhưng không ĐỦ thuyết phục dư luận và nó sẽ vấp phải nguyên tắc Estoppel mà các học giả TQ đang dùng để buộc VN không thể nói ngược được. Do vậy không nên nói rằng Công hàm PVĐ1958 là khúc xương mà VN phải nuốt trọn do “bút sa gà chết”mà phải lý giải thật tỏ tường như sau.
Các việc cần phải làm để vô hiệu hòa công hàm Phạm Văn Ðồng 1958:
1.Về mặt nội dung, một công hàm mà Chính phủ CHXHCNVN phải chuẩn bị cần có nội dung như sau :
Cần xác định rõ ràng là vào thời điểm 1958, sau Hiệp định Geneve thì trong Hiệp định nêu rõ VN là một nước thống nhất nhưng phải chia cắt làm hai và trở thành hai thực thể chính trị nhưng không phải là hai quốc gia theo đúng nghĩa, phải là thành viên được LHQ công nhận – do không quốc gia nào là thành viên của Liên Hiệp Quốc.
”Nghĩa vụ cao cả của một chính phủ là bảo vệ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia. Chính phủ VNCH cương quyết làm tròn nghĩa vụ ấy, bất luận gặp phải những khó khăn trở ngại có thể gặp phải và bất chấp sự phản đối không căn cứ dầu xuất phát ở đâu. Chừng nào còn một hòn đảo thuộc phần lãnh thổ ấy của VNCH bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực thì chừng ấy chính phủ và nhân dân nước VNCH còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình. Trong dịp này, chính phủ VNCH cũng long trọng tái xác nhận chủ quyền của VNCH trên những hòn đảo nằm ở ngoài khơi bãi biển Trung phần và bãi biển Nam phần Việt Nam từ trước tới nay vẫn được coi là phần lãnh thổ của VNCH căn cứ trên những dữ kiện địa lý, lịch sử, pháp lý và thực tế không thể chối cãi được. Trung thành với chính sách hòa bình cố hữu của mình, chính phủ VNCH sẵn sàng giải quyết bằng đường lối thương lượng những vụ tranh chấp quốc tế có thể xảy ra về những hải đảo ấy nhưng nhất định không vì thế mà từ bỏ chủ quyền của VNCH trên những phần đất ấy (tuyên cáo của Bộ Ngoại giao VNCH đã được báo Thanh Niên đăng trang trọng tại trang nhất ngày 09/01/2014).
Như vậy dù có chậm trễ, đối với vấn đề lãnh thổ biên cương hải đảo của nước VN, Chính quyền nước VNCH đã thể hiện ý chí hoàn toàn khác với Công hàm PVĐ 1958 và điều đó đã mặc nhiên phủ định Công hàm PVĐ 1958 ngay từ thời điểm năm 1974 khi Trung Cộng xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa do VNCH cai quản.
Chính phủ VN ngày hôm nay có thể lý giải với dư luận rằng: Do chờ đợi sau hai năm không có tổng tuyển cử nên Hà Nội đã có công hàm gửi TQ, lúc đó cũng là đất nước bị chia cắt chưa thống nhất vì lúc đó Trung Hoa Dân Quốc (Đài loan) là đại diện cho nước Trung Quốc, là một trong 5 thành viên trong Hội đồng Bảo an LHQ. Do hoàn cảnh khách quan vào năm 1958, Hoa kỳ và Đài Loan và Trung quốc xung đột ở biển đảo, do Trung quốc và VN là hai nước đồng minh nên việc tuyên bố có lợi cho “nước bạn” về vấn đề hải phận của TQ là điều mà Công hàm PVĐ 1958 đã làm. Nhưng công hàm này không thể có hiệu lực pháp lý vì một phần đất đai và lãnh thổ của một đất nước được giao cho một nước khác không thể thể hiện trong một công hàm được vì căn cứ theo Quốc tế Công pháp nói một cách tổng quát, việc chuyển giao một phần lãnh thổ của một quốc gia cho một quốc gia không thể thể hiện chỉ qua một công hàm ngắn gọn mà phải là là dưới một hình thức hiệp định để có thể chuyển giao một phần đất đai cho nước ngoài được; sau đó hiệp định này còn phải được hai nước phê chuẩn theo đúng Hiến pháp của hai nước. Do vậy giá trị pháp lý của công hàm không phải là hiệp định nên phía TQ không thể tùy tiện giải thích Công hàm PVĐ 1958 giữa hai quốc gia theo cách thô thiển mà họ ong muốn. Hơn nữa CHXHCNVN đã liên tục ra nhiều tuyên bố tuyên cáo với quốc dân đồng bào và cho toàn thế giới biết sau năm 1975 là các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là phần đất đai, thuộc nước CHXHCNVN.
2. Về mặt hình thức, do Công hàm PVĐ 1958 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai nên nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần phải gửi cho người đồng cấp là Thủ tướng Lý Khắc Cường của Trung Quốc một công hàm để phủ định Công hàm PVĐ 1958 với cách giải thích nêu trên để nói rõ cho Trung Quốc biết họ không thể giải thích công hàm đó một cách tùy tiện và đã gây ra rất nhiều trở ngại trong quan hệ hai nước mà cao điểm là hành vi đặt giàn khoan vừa qua trong lãnh hải của nước Việt Nam ảnh hưởng đến an ninh hàng hải quốc tế tại Biển Đông.
Với việc nêu rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam qua đề xuất nói trên sẽ làm cho lập trường của VN trở nên minh bạch và sáng ngời. Dư luận và người dân trong nước sẽ không còn áy náy và hồ nghi gì về Công hàm PVĐ 1958 do ra đời trong hoàn cảnh khách quan và chủ quan đặc biệt như đã giải thích. Còn giá trị pháp lý của Công hàm PVĐ 1958 sẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn do đã không được phía VNCH biểu thị ý chí vào năm 1958. Ý chí đó đã được thể hiện rất rõ nét trong trận chiến năm 1974 và chính quyền VNCH cũng như nhân dân tổ chức nhiều cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa, phản đối hành động của Trung Quốc trước Liên Hiệp Quốc, yêu cầu các quốc gia đồng minh đưa vấn đề Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc.
Không còn chần chừ gì nữa chính quyền của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cần nhanh chóng thực hiện các việc trên trước khi đưa vấn đề giàn khoan của TQ xâm lấn vào thềm lục địa của nước VN ra trước Tòa án Công lý Quốc tế.
Luật sư Đặng Dũng
(VOA)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét