Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Phản biện số 3: Dù ông Ngô nói rằng "...không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc...", song le, ông lại chấp nhận điều mà ông gọi là "ngầm ý" rằng "...nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên bố Lãnh hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng..." và Ngô Viễn Phú tự thân công nhận "...biện luận [đó]... là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra...", điều này có nghĩa: VNDCCH, lúc bấy giờ rất "túng thiếu" là điều có thật. Ôi chao! Sự thật mới quan trọng làm sao, phải không tiến sĩ Ngô?
Có khi nào, một người có "của ăn của để" lại cần phải "cầm cố" một tài sản mang giá trị là "bảo vật" được truyền lại nhiều đời không nhỉ? Trong khi đó, chưa chắc "bảo vật" đó là của riêng anh ta mà của cả gia đình giòng tộc, chẳng qua vì anh ta túng quá bèn lén "xách nó" đi... làm bậy. "Tiệm cầm đồ" nào đó, dù biết rõ giá trị (tinh thần thiêng liêng và cả vật chất) món hàng được mang ra "cầm cố" trong lúc "thiếu thuốc", lại vẫn vui vẻ "cầm" với "giá bèo" cùng lãi suất "cắt cổ" thì "tiệm cầnm đồ"đó có vi phạm đạo đức làm người và pháp luật không nhỉ(?). Nếu tiến sĩ Ngô đủ tự tin Hoàng Sa thuộc nuớc có tên CHNDTH, sao ông không tư vấn ngay cho nhà nước có tên CHNDTH giành lấy chủ động kiện ra tòa án quốc tế?
Hẫy nghe nhà luật học nói tiếp: "...chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài...". Một bản "tuyên bố" thống nhất - không thể cắt rời - mang tầm quốc gia, lại được một ông tiến sĩ luật - Viện trưởng (cả một viện nghiên cứu về luật pháp) coi nó như... "một ổ bánh mì", thích thì cắt, khoái thì xé ra "từng miếng" thế sao (?). Tiến sĩ Ngô tỏ ra không chỉ xem thường "tình hữu nghị" mà ông gọi là "sự thực" của nước có tên VNDCCH, nguy hại hơn ông Ngô đang mạ lỵ vào nước có tên CHNDTH mất rồi. Rất tiếc, suy nghĩ như thế, có vẻ không xứng lắm với một tiến sĩ luật (!).
Luận điểm số 4: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà“qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa?!
Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là“bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.
Phản biện số 4: Việc một nhà nước không do dân bầu cử tự do và hợp pháp, thừa nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với một nhà nước cũng tương ứng tình trạng như thế, hoàn toàn không nói lên nguyện vọng của nhân dân hai xứ sở Trung Hoa - Việt Nam.
Thông thường, những nhà nước không chính danh lại thích nhân danh "dân chủ"hoặc liều mạng lấy (đại) tên nước là "cộng hòa nhân dân...". Người Việt Nam có tục ngữ "giấu đầu lòi đuôi".
Nước có tên VNDCCH chiến thắng năm 1975 là sự thực. Không có gì bàn cãi. Tuy nhiên, lẽ nào tiến sĩ luật học Ngô Viễn Phú không biết nhà nước đó đã vi phạm hầu hết và vi phạm thô bạo hiệp định Paris 1973?
Từ biến cố này, nhà nước có tên "cộng hòa nhân dân Trung Hoa" lẹ tay dùng kế"sấn hỏa đả kiếp" để mà hành động cướp ngay Hoàng Sa của Việt Nam. Lẽ nào một nhà luật học lại không hay không biết điều này?
Nếu tiến sĩ Ngô đủ tự tin sử dụng thành ngữ Việt Nam: “qua cầu rút ván”, "bội tín phản nghĩa" đối với những tên "thiếu thuốc" lỡ đến "tiệm cầm đồ" gán nợ cho kẻ tham tiền, sao không tiện thể mắng luôn những kẻ nào với lòng tham lam vô độ đã ra lệnh xối đạn vào 74 người lính Việt Nam đang bảo vệ Tổ Quốc của họ, vào năm 1974, tại Hoàng Sa của Việt Nam? "Tín" nào và "nghĩa" gì đây nhỉ? Phải chăng đó là"chữ tín" và "chữ nghĩa" xuất phát từ sự đồng lõa của đôi bên cái gọi là "nhà nước"không phải do dân bầu lên?
Luận điểm số 5: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã kí Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam - Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lí do rằng hiệp định này được kí kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định. Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ.
Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.
Phản biện số 5: Đúng như tiến sĩ Ngô nói: "...cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ...".
Lịch sử tang thương của Việt Nam cũng là sự thực. Do đó, công hàm Phạm Văn Đồng tiếp tục "có giá trị" bởi cái gọi là "chiến thắng" năm 1975. Liệu nước có tên VNDCCH có thể "thắng cuộc" nếu thực thi nghiêm chỉnh Hiệp định Paris 1973? Những người sẵn sàng "ký và xé" tất cả mọi điều hứa chẳng lẽ là những người mà nước có tên CHNDTH yêu mến và đáng "chơi" cùng với "16 chữ vàng" và "4 tốt"?
“Tell me who your friends are and I will tell you who you are.” - có lẽ tiến sĩ Ngô hẳn biết câu tục ngữ phương Tây này?
Tác giả cuốn "A Bitter Peace: Washington, Hanoi, and the Making of the Paris Agreement", Pierre Asselin, phó giáo sư lịch sử ở Đại học Hawaii Pacific cho rằng:
"Hà Nội chiến thắng cuộc chiến Việt Nam, đó là điều chắc chắn, tuy nhiên họ cũng không thắng dựa trên các điều khoản của mình, là thắng một cách vô điều kiện.
Việc vi phạm Hiệp định Paris, điều mà phía Mỹ ít nhất đã cố gắng tôn trọng ở mức độ không đưa quân trở lại miền Nam, đã phá vỡ hình ảnh nạn nhân của chiến tranh chỉ muốn độc lập và hòa bình mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã dựng lên hơn một thập kỷ qua. Điều đó, cùng với những tình huống khác, đã làm giảm sự đáng tin của Hà Nội trong mắt thế giới, và một phần nào đó giải thích tại sao nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam lại bị quốc tế bỏ rơi hồi năm 1980. Hiệp định Paris không phải là một “thắng lợi vĩ đại” của Hà Nội; nó là một sự hòa bình cay đắng và cần thiết để tạo những điều kiện dẫn đến chiến thắng nhanh chóng nhưng đầy rắc rối năm 1975" (trích từ wikipedia)
Một thứ "chiến thắng" không phải xuất phát từ Chính Nghĩa đã đủ đáng xấu hổ với cả thế giới, dám nói chi có quốc gia, mang tên "cộng hòa nhân dân..." lợi dụng hoàn cảnh tan nát của "một gia đình" để mưu lợi. Nhất định những kẻ trục lợi trên đau khổ người khác họ không thể hiểu được từ Hán - Việt: Vô Lương Tâm.
Luận điểm số 6: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lí do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich pháp luật, sự thực lịch sử.
Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về cơ bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình.
Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.
Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lí được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kì của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.
Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội.
Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.
Phản biện số 6: Những lý luận của tiến sĩ Ngô nhằm phản biện lý luận từ phía nước có tên CHXHCNVN rằng: "Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật".
Lý luận của Ngô tiến sĩ là một lý luận thuộc phép ngụy biện "lợi dụng chữ nghĩa". Ngô Viễn Phú cho rằng ông Phạm Văn Đồng có toàn quyền quyết định trong việc"xuất bản" ra công hàm mà không cần phải thông qua quốc hội.
Những chữ "quốc hội", "chính phủ", "hiến pháp", "luật pháp", hoàn toàn vô nghĩa không chỉ đối với nước có tên VNDCCH mà còn đối với nước có tên CHNDTH.
Những khái niệm này cũng trở nên vô nghĩa trong "quan hệ bang giao" của riêng 2 nước này đối với nhau, chỉ một lý do duy nhất: Hai nước có cùng một chế độ - độc tài toàn trị. Một chế độ như thế, thử hỏi "hiến pháp" hay "quốc hội" còn có vai trò gì để cho một tiến sĩ luật mạnh miệng viện dẫn như một "nhà luật học" cần phải hấp thụ văn hóa văn minh và học hỏi thêm từ nền giáo dục nhân bản và khai phóng?
Kết
Tóm lại, 6 luận điểm của tiến sĩ thuộc nước có tên CHNDTH hoàn toàn bị gãy đổ. Dù sao, Ngô Viễn Phú cũng giúp dân tộc Việt Nam và dân tộc Trung Hoa hiểu rõ thêm được tại sao Mao Trạch Đông gọi "trí thức là cục phân".
________________
Bài phản biện này hoàn toàn dựa theo đúng toàn bộ nội dung bằng tiếng Việt của trang dannews.info
0 nhận xét:
Đăng nhận xét