Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Trung Quốc dựng chuyện quá vụng về!

Việc Trung Quốc nói quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc và không có tranh chấp là mâu thuẫn với chính lời của các lãnh đạo Trung Quốc. Ngày 24/9/1975, trong trao đổi với đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận rằng, giữa hai nước có tranh chấp về 2 quần đảo và hai bên có thể bàn bạc với nhau để giải quyết. Ý kiến của ông Đặng Tiểu Bình đã được ghi lại trong bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988, đăng trên Nhân dân nhật báo.

(PetroTimes) - Nhằm phản bác những luận điệu sai trái của phía Trung Quốc trong thời gian gần đây, đồng thời tiếp tục cung cấp cho công luận trong và ngoài nước những thông tin thực tiễn về tình hình trên thực địa hiện nay, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tổ chức họp báo quốc tế về tình hình Biển Đông vào lúc 17 giờ chiều nay (16/6) tại Hà Nội.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam Trần Duy Hải (người đứng). 
Đây là lần họp báo quốc tế thứ 5 kể từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou 981) trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.

Trong khi đó, trên thực địa, Trung Quốc vẫn tiếp tục hung hăng, cố tình phun nước cường độ mạnh đe dọa, đồng thời đánh đập ngư dân, đâm chìm tàu Việt Nam hoạt động bình thường ở Biển Đông. Bên cạnh hoạt động trái phép hung hăng đó, Trung Quốc liên tục đưa ra luận điệu sai trái về những căng thẳng hiện nay. Cụ thể, trong các ngày 8-9/6, Trung Quốc cho công bố tài liệu tiêu đề “Tác nghiệp của giàn khoan Hải Dương-981 (Haiyang Shiyou-981), sự khiêu khích của Việt Nam” và đề nghị Liên Hiệp Quốc lưu hành. Ngày 13/6, Phó Vụ trưởng Vụ Biên giới và Hải đảo Trung Quốc Dịch Tiên Lương cho họp báo và nêu những luận điệu sai trái và vô căn cứ về tình hình trên biển.

Tại cuộc họp báo, ông Trần Duy Hải – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế. Đồng thời, tái khẳng định quan điểm trước sau như một của Việt Nam là “kiên quyết phản đối mọi hành động của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh thế và thềm lục địa của Việt Nam”. Ông Trần Duy Hải cũng nhấn mạnh rằng, hành động kéo giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào khoan thăm dò ở vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam đã vi phạm thỏa thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước về không mở rộng, làm phức tạp tình hình Biển Đông, xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982.

Để phản bác những luận điệu sai trái của phía Trung Quốc đưa ra trong thời gian gần đây, ông Trần Duy Hải cùng các đại diện của lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đã cung cấp những bằng chứng hình ảnh, video, tư liệu lịch sử… chứng minh chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; chứng minh Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc; cũng như chứng minh việc các tàu bảo vệ Trung Quốc đã hành động hung hăng, ngang ngược trên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và các thông tin Trung Quốc đưa ra là sự vu khống, bóp méo sự thật không thể chấp nhận được.

Quan điểm của Việt Nam về yêu sách của Trung Quốc đối với Hoàng Sa

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam Trần Duy Hải tuyên bố: Việt Nam bác bỏ lập luận yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là “Tây Sa” vì các yêu sách của Trung Quốc không có cơ sở pháp lý và lịch sử, đồng thời nêu rõ các luận điểm, luận cứ bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc.

Thứ nhất, các “tư liệu lịch sử” mà Trung Quốc đã công khai không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được diễn giải một cách tùy tiện.
Các tư liệu này đều là của cá nhân, không phải là tài liệu chính thức của nhà nước phong kiến Trung Quốc. Trong các tư liệu đó, quần đảo Hoàng Sa được nêu tên và mô tả một cách thiếu nhất quán. Theo quy định của luật pháp quốc tế về thụ đắc lãnh thổ, một quốc gia chỉ có thể thiết lập chủ quyền thông qua các hành động thực thi chủ quyền mang danh nghĩa nhà nước. Các tài liệu mà Trung Quốc đưa ra không chứng tỏ nhà nước phong kiến Trung Quốc đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa khi quần đảo này còn là lãnh thổ vô chủ.

Trong khi đó, Việt Nam đã cung cấp công khai bằng chứng xác thực cho thấy nhà nước phong kiến Việt Nam đã thiết lập chủ quyền đối với quần đảo này từ khi quần đảo là lãnh thổ vô chủ. Sau khi Pháp ký hiệp định bảo hộ năm 1874 và 1884 với triều đình phong kiến Việt Nam, Pháp đã thay mặt Việt Nam tiếp tục thực thi chủ quyền đối với Hoàng Sa và tuyên bố phản đối các hành động xâm phạm của Trung Quốc, đồng thời nêu rõ chủ quyền của Hoàng Sa đã được nhà nước An Nam xác lập từ năm 1816.

Thứ hai, các hội nghị quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ 2 không hề giao Hoàng Sa cho Trung Quốc. Tại Hội nghị San Franciso năm 1951, đề nghị về việc điều chỉnh dự thảo Hiệp định để ghi nhận quần đảo hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc đã bị bác bỏ bởi đa số 46 phiếu chống (trên tổng số 51). Trong khi đó, phát biểu của ông Trần Văn Hữu, Thủ tướng, trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam tham dự Hội nghị, đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa và Trường Sa mà không gặp bất cứ sự phản đối nào tại Hội nghị.

Thứ ba, Trung Quốc đã vi phạm nguyên tắc cấm đe dọa và sử dụng vũ lực khi hai lần xâm chiếm trái phép Hoàng Sa vào các năm 1956 và 1982; tấn công và chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa từ chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

Hành động sử dụng vũ lực thông tính lãnh thổ của một quốc gia khác là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, do đó, không thể tạo nên chủ quyền cho Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Thứ tư, Việt Nam chưa bao giờ công nhận chủ quyền của Trung Quốc.


Trung Quốc đã cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở Việt Nam trước năm 1975 như là bằng chứng về việc Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Trong khi đó, Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ cũng như chủ quyền, đồng thời không nhắc gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan của Việt Nam tôn trọng giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố.

Việc công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng phù hợp với thực tế lúc đó là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa, được Pháp chuyển giao trên thực tế năm 1956 và phù hợp với Hiệp định Geneva năm 1954 mà Trung Quốc cũng là một bên tham gia.

Việc Trung Quốc nói quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc và không có tranh chấp là mâu thuẫn với chính lời của các lãnh đạo Trung Quốc. Ngày 24/9/1975, trong trao đổi với đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn, Phó Thủ tướng Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã thừa nhận rằng, giữa hai nước có tranh chấp về 2 quần đảo và hai bên có thể bàn bạc với nhau để giải quyết. Ý kiến của ông Đặng Tiểu Bình đã được ghi lại trong bị vong lục của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12/5/1988, đăng trên Nhân dân nhật báo.

Không có chuyện tàu Việt Nam đâm vào tàu Trung Quốc

Ngày 13/6/2014, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tổ chức họp báo về giàn khoan Hải Dương 981, trong đó đưa ra một số thông tin và hình ảnh với các cáo buộc như: tính đến 12 giờ ngày 13/6/2014, các tàu Việt Nam đã tiến hành đâm húc 1547 lần vào các tàu Trung Quốc và làm cho mũi tàu Trung Quốc hư hỏng; Việt Nam cử nhiều người nhái, thả nhiều lưới đánh cá và chướng ngại vật tại khu vực hiện trường gây ảnh hưởng tới người và tàu Trung Quốc…

Về các vấn đề này, ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam đã bác bỏ các thông tin sai lệnh và phi lý trên, đồng thời cung cấp những hình ảnh, video chân thực, sống động mà lực lượng Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đã quay được tại hiện trường.

Ông Ngô Ngọc Thu khẳng định, thực tế, vừa qua chỉ có các tàu Trung Quốc mới chủ động đâm va và phun nước vào các tàu Việt Nam làm cho 36 lần/chiếc tàu Việt Nam bị hư hỏng (tàu Kiểm ngư là 23 tàu, tàu Cảnh sát biển là 05 tàu, tàu cá là 07 tàu, trong đó tàu cá Việt Nam số hiệu Đna 90152 TS bị tàu cá Trung Quốc số hiệu 11209 đâm chìm vào lúc 16 giờ ngày 26/5/2014 tại khu vực cách giàn khoan 16,5 hải lý về phía Tây Nam). Ngoài ra, đến nay, tổng cộng có 15 kiểm ngư viên và 2 ngư dân Việt Nam bị thương.

Ông Ngô Ngọc Thu, Phó Tư lệnh – Tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam

Phó Tư lệnh Cảnh sát biển Việt Nam cũng lưu ý một chi tiết chứng tỏ Trung Quốc đã dựng nên một màn kịch rất vụng về, đó là các tàu Việt Nam không thể sử dụng mạn và boong tàu để đâm vào mũi tàu Trung Quốc được. Chỉ có tàu Trung Quốc dùng mũi để đâm vào mạn, boong tàu Việt Nam. Việc này không chỉ làm hư hỏng tàu, trang thiết bị trên tàu Việt Nam, mà ngay cả mũi tàu Trung Quốc cũng bị xây xát là chuyện đương nhiên.

Ông Ngô Ngọc Thu cho biết, cho đến thời điểm hiện nay, Việt Nam không hề sử dụng lực lượng người nhái tại khu vực hiện trường như Trung Quốc vu khống. Về một số lưới đánh cá và một số vật trôi nổi Trung Quốc vớt được, nguyên nhân đây là vùng đánh cá truyền thống của Việt Nam, khi ngư dân Việt Nam tiến hành đánh bắt cá thì bị các tàu của Trung Quốc ngăn cản, đâm va và phun nước nên tàu cá Việt Nam buộc phải bỏ lưới, cơ động tàu để tránh sự truy cản của tàu Trung Quốc.

Những vật trôi nổi như thùng phi, mảnh gỗ Trung Quốc vớt được trên biển là do tàu Trung Quốc đâm va vào các tàu Việt Nam và sử dụng vòi rồng công suất lớn phun sang các tàu Việt Nam, làm cho các thùng phi chứa dầu, thùng sơn, các khúc gỗ là dụng cụ huấn luyện để trên mặt boong tàu, các mảnh ván và thiết bị của tàu Việt Nam bị đâm vỡ… bị văng xuống biển.

Trung Quốc nói không đưa tàu chiến và máy bay quân sự đến hiện trường, nhưng trên thực tế, các lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, cũng như các phóng viên các hãng thông tấn báo chí trong và ngoài nước đi thực địa, đã ghi lại được đầy đủ các số liệu, số hiệu tàu và máy bay tại thực địa là bằng chứng không thể chối cãi.

“Trong hơn 40 ngày qua, không thể ngày nào cũng có từ 4-6 tàu chiến đi qua khu vực này bình thường như Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố”, ông Ngô Ngọc Thu nhấn mạnh.

Về việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc thông báo tại cuộc họp báo ngày 13/6/2014 là "Chiều 26/5, một tàu cá Việt Nam nhiều lần đâm vào tàu cá của Trung Quốc và tự bị lật. Tàu Trung Quốc định vào cứu, nhưng 30 tàu Việt Nam đã nhanh chóng vây quanh tàu cá này, phía Trung Quốc không có cách nào vào cứu được. Không hề có chuyện tàu Trung Quốc ngăn cản việc cứu hộ", ông Hà Lê - Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam cũng lên tiếng phản đối và bác bỏ.


Ông Hà Lê - Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (người đứng)

Ông Hà Lê cho hay, tại khu vực này, các tàu cá của Việt Nam thường xuyên bị phía Trung Quốc xua đuổi, uy hiếp. Đặc biệt nghiêm trọng là vụ việc xảy ra vào ngày 26/5/2014, khi tàu cá của Việt Nam mang số hiệu ĐNa 90152 TS có 10 ngư dân trên tàu đang hoạt động khai thác hải sản cách giàn khoan Hải Dương 981 khoảng 17 hải lý thị bị nhiều tàu cá của Trung Quốc bao vây, uy hiếp, trong đó tàu cá của Trung Quốc mang số hiệu 11209 đã chủ động bám đuổi, đâm và đẩy tàu cá ĐNa 90152 TS của Việt Nam đến khi bị lật úp. Ngoài ra, các tàu Trung Quốc còn có hành động ngăn cản các tàu của Việt Nam tham gia cứu hộ, cứu nạn 10 ngư dân của tàu cá ĐNa 90152 TS.

Thực tế hiện trường qua video cũng như phân tích cho thấy, không thể có chuyện một tàu cá có lượng giãn nước dưới 30 tấn như tàu ĐNa 90152 TS chủ động đâm vào tàu cá vỏ sắt to gấp nhiều lần của Trung Quốc được!

Cuối cùng, đại diện Cảnh sát biển và Kiểm ngư Việt Nam đều khẳng định: Mặc dù các tàu bảo vệ Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành động ngăn chặn, cản phá quyết liệt, sẵn sàng đâm va, phun nước; song lực lượng Cảnh sát biển, Kiểm ngư Việt Nam đã kiên quyết, kiên trì, kiềm chế, không mắc mưu khiêu khích, chủ động cơ động, vòng tránh trước hành động khiêu khích đâm va của các tàu Trung Quốc.

Các tàu Việt Nam không phun nước và đâm vào các tàu bảo vệ, tàu cá Trung Quốc chỉ phát loa tuyên truyền yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và các tàu bảo vệ ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Linh Phương

Socializer Widget By Blogger Yard
SOCIALIZE IT →
FOLLOW US →
SHARE IT →

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Related Posts Plugin for WordPress, Blogger...